1. Chúa Giêsu kém trí nhớ!
2. Chúa Giêsu không biết làm toán
3. Chúa Giêsu không sành luận lý
4. Chúa Giêsu không biết kinh tế tài chánh
5. Chúa Giêsu làm bạn với kẻ tội lỗi
6. Chúa Giêsu thích ăn uống, tiệc tùng
7. Chúa Giêsu không giữ luật Do thái
8. Chúa Giêsu như điên cuồng
9. Chúa Giêsu phiêu lưu
10. Chúa Giêsu có những lời giảng dạy xem ra mâu thuẫn



1 - Chúa Giêsu kém trí nhớ!
Lúc sắp trút hơi thở, Chúa
Giêsu có cuộc đối thoại cuối cùng với hai người gian phi cùng bị treo
trên thập giá cạnh ngài. Một trong hai người đó thốt lên lời nầy với
Chúa Giêsu: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi".
Và Chúa nói với anh ấy: "Tôi bảo thật với anh, hôm nay, anh sẽ được ở
với tôi trên Thiên đàng" (Lc. 23, 42-43).



Chúa Giêsu không sưu tra lại
lý lịch người đó để nhớ xem hắn gian ác đến mức độ nào, không cân nhắc
tội nặng, nhẹ để châm chước hay tạm ra hình phạt thế nào đó cho thích
đáng. Người gian phi kêu nài Ngài nhớ, thì Ngài "nhớ" một điều là thấy
người ấy trước mắt, còn tất cả mọi điều gian ác trước đó Ngài đã quên
hết, quên đến độ ngay hôm đó hứa ngay Nước Thiên đàng cho anh ta. Các
thánh nói: tên nầy suốt đời ăn trộm, đến lúc chết nó ăn trộm nước thiên
đàng luôn!



Trong Phúc âm chúng ta gặp
lại nhiều chứng tích về việc Chúa Giêsu kém trí nhớ như thế. Nhưng qua
chuyện ngụ ngôn người cha nhân hậu, sự kiện đó rõ ràng. Thánh sử Luca kể
rằng người con út trong hai con của cha già đã lấy hết phần gia tài của
nó, để bỏ nhà ra đi sống đời phóng đảng, quên cha, quên anh. Ðến khi
tiêu hết tiền, gặp năm đói, thì quay trở về nhà, xin khai thú tội lỗi
mong cha già xét tình cha con mà tha thứ...



Người cha (là hình ảnh Chúa
Giêsu), không kể đến tội cũ, chỉ trông ngóng chờ con; thấy con đằng xa,
thì chạy ra đón. Con có thú tội, thì cũng không cố nghe để hạch hỏi tội
cũ mà ra lệnh cho tôi tớ: lấy áo đẹp, giày tốt, nhẫn quý mang lại cho
cậu, làm thịt con bê béo dọn tiệc vì con ta chết mà nay nó sống lại.



"Anh ta còn ở đằng xa, thì
người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và
hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con thưa rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội
với Trời và với Cha, con chẳng đáng gọi là con cha nữa...". Nhưng người
cha liền bảo người giúp việc rằng: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho
cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay , xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con dê đã vỗ
béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!..." (Lc. 15, 20-23).



Chúng ta thấy ở đây trí nhớ
của Chúa Giêsu dường như không còn làm việc nữa! Ngài quên vô điều kiện,
quên tức khắc tất cả quá khứ không hay không tốt của ta, mỗi khi chúng
ta quay trở về. Ngài chỉ nhớ mỗi người là con Cha Ngài, là em Ngài, nên
khi ta quay lại gặp Ngài, thì tức khắc ta lại được mặc áo vinh hiển sự
sống của Thiên Chúa.



10 KHUYẾT ĐIỂM CỦA CHÚA GIÊ-SU  %25C4%2590I+M%25E1%25BB%2598T+%25C4%2590O%25E1%25BA%25A0N+%25C4%2590%25C6%25AF%25E1%25BB%259CNG+V%25E1%25BB%259AI+CH%25C3%259AA
2 - Chúa Giêsu không biết làm toán

Trong dụ ngôn con chiên bị
mất (xem Mt. 18, 12-14; Lc. 15, 4-7), chúng ta thấy lối cư xử của Chúa
Giêsu tỏ ra không biết tính toán. Một kẻ có 100 con chiên ở giữa đồng
trống mà mất một con, hẳn phải tính toán xem làm sao một con đi lạc lại
hơn 99 con còn lại. Không những Chúa Giêsu cho rằng 1 con đi mất cũng
bằng 99 con còn lại, mà còn đi xa hơn nữa: Ngài bỏ 99 con còn lại đấy để
đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất. Một mà hơn 99, hẳn Chúa Giêsu
không biết làm toán!

Trong chương trình rao giảng
của Ngài, không phải số lượng quần chúng đông đảo mà Chúa Giêsu tìm
kiếm, nhưng là những con người; và Ngài đã không tiếc thì giờ để trao
đổi với từng người, giảng dạy cho một người như chúng ta từng thấy trong
cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari trên bờ giếng Gia-cóp (xem Gioan
4, 1-42).



3 - Chúa Giêsu không sành luận lý
Chúa Giêsu không những không
cân nhắc tính toán trên số lượng, mà có lúc lời của Ngài đi ngược lại sự
khôn ngoan bình thường của con người.



"Khi nào ông đãi khách ăn
trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em hay bà con, hoặc láng giềng
giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái
lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt,
đui mù. Họ không có gì để đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc...
(Lc. 14, 12-14).



Trong dụ ngôn về đồng bạc bị
mất (xem Lc. 15, 8-10), người phụ nữ có 10 đồng, nhưng trong đêm lỡ đánh
mất 1 đồng: "bà thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm cho bằng được." - Khi
tìm được, thì bất chấp giờ giấc nghĩ ngơi ban đêm của hàng xóm, bạn bè,
mời họ phải đến chung vui với mình.



Chúa Giêsu ví mình như người
phụ nữ tìm đồng bạc bị mất trong đêm; không cần suy tính, luận lý là
đủng đỉnh ngày mai sẽ tìm, dù sao thì cũng còn 9 đồng khác trong tay;
nôn nóng đem nguồn vui của mình cho người chung quanh không ngại sự nghỉ
ngơi trong đêm vắng. Chẳng qua vì Chúa là yêu thương, mà yêu thương của
Thiên Chúa cao hơn lý luận con của người.



"Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" (Lc. 15, 10).


4 - Chúa Giêsu không biết kinh tế tài chánh
Chúa Giêsu đến để loan báo
Nước Trời ở gần con người, gần cuộc sống của họ. Thế mà khi giới thiệu
Nước Trời với các môn đệ và với người nghe Ngài nói, Ngài lấy dụ ngôn về
Nước Trời như người chủ vườn nho thuê thợ làm cho mình trong một ngày
(xem Mt. 20, 1-16). Người chủ từ tảng sáng đã mướn thợ làm; rồi đến giờ
thứ 3, giờ thứ 6, giờ 11, mỗi giờ người ấy đều đi tìm mướn thêm thợ (giờ
11 trong lối nói của người Do Thái thời của Chúa Giêsu tức là buổi cận
chiều tối rồi).



Chiều tối đó, ông chủ, là
hình ảnh Chúa Giêsu, bảo người quản lý kêu thợ lại và trả cho mỗi người 1
quan tiền như nhau. Những kẻ làm nhiều giờ trong ngày bực tức vì thấy
ông chủ nầy không biết gì về kinh tế, tài chánh cả, hơn nữa còn bất chấp
lối tính toán và sự công bình thông thường:



"Nầy bạn, tôi đâu có xử bất
công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là 1 quan tiền sao?...Hay
vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ghen tức? Thế là những kẻ đứng chót sẽ
được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót..."
(Mt. 20, 13-16).



5 - Chúa Giêsu làm bạn với kẻ tội lỗi
Không phải trong xã hội của
người Do Thái vào thời Chúa Giêsu còn tại thế, mà ngay giữa xã hội chúng
ta, người ta khó lòng chấp nhận chuyện người "đàng hoàng" lại giao du
với lớp người được đánh giá là không "đàng hoàng".



Thời bấy giờ người đồng hương
với Chúa Giêsu cho rằng hai giới đặc biệt không "đàng hoàng" là những
quân thu thuế và người tội lỗi, đặc biệt là các người gái điếm. Người
tội lỗi bấy giờ còn được xem là những kẻ không lành mạnh về cuộc sống
thân xác, như người phung cùi, tàn tật... Những người Pha-ri-siêu nhiều
lần thắc mắc về thái độ sống của Chúa Giêsu và nhắc nhở với các môn đệ
Chúa:



"Sao Thầy của các anh lại ăn
uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi như vậy?" (Mt. 9, 11). "Ông nầy
đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng" (Lc. 15, 2).



Theo các sách Phúc âm ghi
lại, thì không những Chúa Giêsu chỉ gặp gỡ, chào hỏi, hay bất đắc dĩ
được mời ăn thì ngại lắm phải chiều người ta, mà thực sự Ngài tự tìm tới
nhà người thu thuế, và kẻ tội lỗi, làm thân với họ và ăn ở với họ.



Ông Da-kêu là người "đứng đầu
những người thu thuế" (Lc. 19, 2); khi biết Chúa Giêsu đi qua thành phố
Giê-ri-cô, ông ấy sợ không chen lấn nổi với đông đảo dân chúng, nên
chạy ra đàng trước, trèo lên cây sung để xem Ngài, chẳng qua vì ông rất
lùn. Chúa Giêsu đi qua, nhìn lên cây ấy thấy ông và nói ngay:



"Nầy ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!" (Lc. 19, 5).


Người chung quanh xào xáo:
"Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ" (Lc. 19, 7).
Chúa Giêsu tự đến để gặp gỡ Da-kêu và loan Tin Mừng:
"Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà nầy" (Lc. 19, 9)
Và chúng ta đều biết Chúa đã
chọn 1 trong 12 vị tông đồ của Ngài là Mathêu, trước đó có tên là Lê-vi
một người làm nghề thu thuế.



Và để giải thích thái độ ngược đời của mình, chính Chúa Giêsu đã nói rõ sứ mệnh của Ngài.


"Người khoẻ mạnh không cần
thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa câu nầy:
Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người
công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi (Mt. 9, 12-13).



6 - Chúa Giêsu thích ăn uống, tiệc tùng
Phúc-âm cũng cho chúng ta
thấy sự kiện mỗi lần đến nhà nào, gặp ai, đặc biệt là những người được
xã hội xếp loại không "đàng hoàng", Chúa Giêsu lại thường ăn uống. Ngài
mở đầu sứ mạng rao giảng công khai bằng việc dự tiệc cưới Cana miền
Galilê (Gioan 2, 1), kết thúc cuộc gặp gỡ chung với các tông đồ trước
khi đi vào cuộc khổ nạn bằng bữa tiệc ở Giêrusalem gọi là tiệc ly (Mt.
26, 17 và tìếp theo).


Thế nhưng lịch sử nhiều tôn
giáo và tâm thức nhiều nền văn hoá không phải đã cho chúng ta thấy rằng
nói đến thần thánh, đạo đức, tôn giáo thì hẳn phải nói đến ăn chay cầu
nguyện hay sao!


Luca thuật lại rằng, sau bữa
tiệc lớn tại nhà Lê-vi (tức thánh Mathêu sau nầy) những người
Pha-ri-siêu và những người thông luật nói với Chúa Giêsu: "Môn đệ ông
Gioan năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pha-ri-siêu cũng thế, còn
môn đệ ông thì ăn với uống" (Lc. 6, 33). Chúa Giêsu đã dùng những bữa ăn
để cứu người tội lỗi như Mađalêna, Da-kêu...

Cái mới của Chúa Giêsu làm
cho người Pha-ri-siêu và cả chúng ta khó hiểu đó là tất cả sứ điệp của
Ngài, không còn phải là ăn chay hay ăn tiệc, nhưng tiên quyết là Yêu
thương phát xuất từ tận đáy lòng mình. Như thánh Augustinô sau nầy tóm
tắt trong câu: "Hãy yêu rồi làm gì thì làm" (Ama et fac quod vis).


7 - Chúa Giêsu không giữ luật Do thái
Không những lui tới bạn bè,
với kẻ tội lỗi, lại còn hay dự tiệc với họ, Chúa Giêsu không giữ luật lệ
của cộng đồng người Do Thái đương thời. Ngài bất chấp luật phải rửa tay
trước bữa ăn, đi thẳng vào bàn tiệc nên "ông Pha-ri-siêu lấy làm lạ vì
lúc đầu Ngài không rửa tay trước bữa ăn" (Lc. 11, 38). Ðặc biệt trong
những ngày sa-bát, Ngài hay chữa lành bệnh tật cho người ta, và điều đó
đối với người Do Thái đương thời cho là phạm luật. Phúc âm ghi lại nhiều
sự kiện như thế, như việc chữa lành người bại tay (Lc. 6, 8-11), chữa
người mắc bệnh phù thủng (Lc. 14, 1-6), chữa lành một phụ nữ còng lưng
(Lc. 13, 14)... Thánh sử Luca ghi rõ: "Ông trưởng hội đường tức tối vì
Ðức Giêsu đã chữa lành bệnh vào ngày sa-bát (Lc. 13, 14). Ngài không giữ
luật, và các môn đệ theo Ngài cũng không giữ luật:

"Vào ngày sa-bát, Ðức Giêsu
đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ đưa tay bứt lúa ăn. Nhưng có
mấy người Pha-ri-siêu nói: "Tại sao các ông làm điều không được phép làm
trong ngày sa-bát" (Lc. 6, 1-2).


Nhưng trước những lời chỉ
trích nầy, Chúa Giêsu trả lời: "Con người làm chủ ngày sa-bát" (Lc. 6,
9). Chúa Giêsu đến để làm trọn lề luật, để ban luật mới là luật yêu
thương, là luật có chiều kích nội tâm, để xoá bỏ những lối giải thích lề
luật rắc rối bên ngoài: "Khốn cho các ngươi giả hình, như má tô vôi,
bên ngoài trắng trẻo mà bên trong thối tha" (Mt. 23, 13-36).


8 - Chúa Giêsu như điên cuồng
Trong Toà Tổng trấn
Phi-la-tô, lúc chịu xử án, Chúa Giêsu bị lính của Tổng trấn cho choàng
áo đỏ, đội vương niệm bằng gai để chế nhạo như là kẻ điên cuồng. Nhưng
không phải chỉ người ngoài, mà ngay cả Phê-rô, người vừa được Chúa Giêsu
cử sẽ làm đầu Hội thánh Ngài: "Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng đá, trên
tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ
không thắng nổi..." (Mt. 16, 18), người được Chúa tin yêu như thế cũng
không chịu nổi những lời nói như điên dại của Chúa Giêsu: "Người phải đi
Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và
kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại" (Mt. 16,
21). Ðiên dại vì gọi môn đệ theo mình, đồng thời thông báo mình phải
chịu khổ đau, bị giết chết; và xem ra điên dại hơn nữa khi bảo rằng chết
sau ba ngày sẽ sống lại! Và suốt cả các cuốn Phúc âm trang nào cũng làm
cho chúng ta ngạc nhiên về thái độ và lời nói khác lạ của Ngài:


"Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho
kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện
cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên nầy, thì hãy giơ cả má bên kia
nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin
thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại... (Lc. 6, 27-31).


Nói như thế, làm sao có thể nghe cho được, khi tâm tư ta còn sống trong tâm trạng "măt đền mắt, răng đền răng"!

Và tôi xin kể cho các bạn
kinh nghiệm của tôi về sứ điệp "điên dại" nầy của Chúa Giêsu. Lúc tôi
sống những năm tháng tù đày tại quê nhà, có lúc những người canh tù tâm
sự cho tôi hay, họ thắc mắc và ngạc nhiên về thái độ vui cười, thân
thiện của tôi đối với họ: trong hoàn cảnh nầy làm sao có thể thanh thản
và dung thứ như thế được! Tôi đã có dịp chia sẻ các kinh nghiệm đó trong
cuốn sách "Năm chiếc bánh, và hai con cá", tôi vừa cho phổ biến trong
năm nầy. Nhưng ở đây tôi muốn nói, chính sự "điên dại" của tình yêu
thương Thiên Chúa đối với tôi, đối với mọi người là "khuyết điểm" làm
tôi say mê hơn cả; sự điên dại đó lôi kéo tôi bước theo Chúa Giêsu!


9 - Chúa Giêsu phiêu lưu
Một chương trình cứu chuộc
toàn nhân loại, một dự tính gửi người đi rao truyền Phúc âm cho mọi dân
nước, mọi thế hệ, thế mà lại chọn và đặt hết tín nhiệm, quyền hành cho
Phê-rô, một người chài lưới bộp chộp, ít học rồi còn sợ sệt chối mình
nữa!


Và về phương cách truyền bá,
rao giảng nước Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu lại dạy các môn đệ: "Anh em
đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng
đừng có hai áo" (Lc. 9, 3).


Phiêu lưu trong việc tuyển
lựa các môn đệ, Chúa Giêsu còn bị ngay các môn đệ Ngài nghi ngờ là quá
phiêu lưu. Khi Chúa Giêsu loan báo chương trình Ngài sẽ bị bắt nạp, bị
giết chết và sẽ sống lại trong ngày thứ ba, thì "Các môn đệ buồn phiền
lắm" (Mt. 17, 23). Khi Chúa nói với họ: "Nếu các ông không ăn thịt và
uống máu Con người, các ông không có sự sống nơi mình" (Gioan 6, 53),
thì "nhiều môn đệ của Ngài liền nói: "Lời nầy chướng ta quá! Ai mà nghe
nổi" (Gioan 6, 60). Và, vì thấy lời giảng dạy của Chúa Giêsu khó nghe và
phiêu lưu quá, nhiều môn đệ rút lui. Nên Chúa quay hỏi nhóm 12 tông đồ
"Cả anh em nữa, anh em cũng bỏ đi sao?" (Gioan 6, 67).


Có lần khác, có người lại
muốn đi theo Ngài làm môn đệ, nên hỏi: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng
xin đi theo". Người trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng
con người không có chỗ tựa đầu (Lc. 9, 58).


Và cuộc phiêu lưu tột đỉnh
của Yêu thương nơi Chúa Giêsu được diễn tả cô động nơi bài ca trong thư
của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Phi-líp-phê:


"Ðức Giêsu Kitô
Vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân phận nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự (Phl. 2, 6-Cool.


10 - Chúa Giêsu có những lời giảng dạy xem ra mâu thuẫn
Mâu thuẫn vì Lời từ Thiên Chúa khác với lời chúng ta.

Làm sao chúng ta thấy hợp lý
được khi tuyên dương Phúc cho kẻ nghèo, kẻ phải đói, kẻ phải khóc, kẻ bị
người ta oán ghét (xem Lc. 6, 20-22).


"Ai muốn cứu mạng sống mình, thì phải mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Lc. 9, 24).

Làm sao có thể ví Nước Thiên Chúa, Nước của Ðấng toàn năng, vô tận với một hạt cải (xem Lc. 13, 18-19).

Mà làm sao có thể tuyên xưng
là "Con Thiên Chúa, Ðấng hằng sống" lại phải chấp nhận sự chết và chết
nhục nhằn trên Thập giá (xem Lc. 23, 70).

Ngày 12.10.1998, có một cuộc
tĩnh tâm linh mục quốc tế, tại thành phố Monterrey, nước Mexico: 91 giám
mục, 1,500 linh mục tham dự. Lúc tôi vừa nói: Tôi yêu các khuyết điểm
của Chúa Giêsu, các ngài nhìn nhau với vẽ ngạc nhiên, bỡ ngỡ! Nhưng nói
đến đâu các ngài lại cười đến đó, cuối bài các ngài xúm lại quanh tôi và
bảo: "Chúng tôi cũng yêu các khuyết điểm của Chúa Giêsu".




**************************
Các bạn thân mến,
Bây giờ, sau khi chúng ta cùng nhau lược qua 10 khuyết điểm của Chúa
Giêsu, 10 khuyết điểm ghi lại nơi các bản Phúc-âm, tôi lại một lần nữa
xác quyết với các bạn rằng: vì tôi yêu 10 khuyết điểm nầy của Chúa
Giêsu, nên chọn Chúa Giêsu làm Thầy, làm Mẫu-mực tuyệt đối cho đời tôi.
Tôi cũng tâm sự với các bạn rằng, cho đến giây phút nầy, tôi không hề có
một chút gì ân hận, Chúa Giêsu đã cuốn hút cuộc đời của tôi. Vì Chúa là
Tình Yêu đã dẫn lối cho tôi đi, đặc biệt trong những ngày tháng tôi cảm
thấy xao xuyến, bứt rứt; chúng đã đem lại nguồn vui và hy vọng cho tôi,
nhất là trong những giây phút khổ đau, tưởng chừng như không thể chịu
đựng nổi. Các bạn biết lý do tại sao không? Vì 10 khuyết điểm đó phát
xuất từ Tình yêu thương mà Thiên Chúa là cha chúng ta ban cho để chúng
ta được sống nhờ Chúa Giêsu:


"Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu" (Gioan 15, 13).

Tình yêu đó không nhớ lỗi
lầm, không tính toán, không xét nét, không vị kỷ, không phê phán, không
câu chấp, không gò bó, không biên giới, không điều kiện; Tình yêu đó yêu
điên cuồng đến độ phiêu lưu và hy sinh cả mạng sống mình; tình yêu đó
khác với mẫu mực nhỏ hẹp của xã hội và của lối cân nhắc giới hạn của
chúng ta. Chúa là Ðấng trọn lành, làm sao có khuyết điểm được, nhưng
Chúa lại là tình yêu vô hạn, mầu nhiệm. Trí khôn loài người không hiểu
nổi, không tin nổi, nên gọi là khuyết điểm! Khuyết điểm ấy lên đến cùng
độ trên thánh giá. Cả 10 khuyết điểm cô đọng vào đó, khi người lính
thách đố Chúa: "Nếu ông thật là con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi Thánh giá
để chúng tôi tin" "Chúa Giêsu thinh lặng, lại còn cầu nguyện: "Xin Cha
tha cho họ..." Lạy Chúa lúc ấy Chúa không chết thì làm sao chúng con
được sống đời đời.


Tôi khích lệ các bạn chọn lựa cuộc sống làm chứng 10 khuyết điểm tuyệt vời đó của Chúa Giêsu.

Và để chấm dứt buổi chia sẻ
nầy tôi xin kể cho các bạn một sự kiện trong cuộc đời của một danh nhân
thế giới đã từng chọn Chúa Giêsu, chọn giáo huấn của Ngài, một giáo huấn
mà ông ấy cho là kỳ lạ, mâu thuẫn "Kitô giáo kỳ lạ" (Le Christianisme
est étrange, Pascal, Pensées, No 537). Danh nhân ấy là ông Blaise Pascal
(1623-1662). Khi ông Pascal vừa qua đời vào tuổi 39, người giúp việc
trong gia đình xin người chị của ông cho phép mở gấu áo ông mặc lần cuối
để xem ông thu giấu cái gì trong ấy. Vì mỗi lần thay áo cho ông, chị
giúp việc thấy ông luôn mở gấu áo cũ lấy một cái gì trong ấy rồi lại tự
may vào gấu áo mới. Người chị của Pascal cũng như người giúp việc cắt
gấu áo và thấy có một miếng giấy nhỏ, trên ấy ghi vỏn vẹn câu sau đây:


"Sự sống đời đời là hiểu biết
và yêu mến Ðức Kitô và Ðấng đã sai Người... lửa, lửa, lửa; nước mắt,
nước mắt, nước mắt của tình yêu". Ðó là bí quyết của B. Pascal một văn
hào, một triết gia, một nhà toán học.


(Ghi lại bài chia sẻ của
Ðức Tổng Giám Mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, sáng thứ Bảy, ngày
12.9.1998, tại nguyện đường Dòng Truyền-Giáo Ðức Mẹ Vô Nhiễm (O.M.I),
Strasbourg, Pháp trong cuộc họp mặt "Niềm Vui Sống Ðạo" của các bạn trẻ
Việt Nam Công Giáo sống tại Âu Châu, do Trung-Tâm Nguyễn-Trường-Tộ tổ
chức).


Tác giả Fx Nguyễn Văn Thuận, HY